Vợ
tôi, vừa ông chủ, vừa bà thầy, vừa là bạn
http://cob.
cdcs. selu. edu/kwik-mind/U-anhly/VanchuongVN/Votoi. htm
Tràm Cà Mau
1. Vợ tôi không phải là một người đàn bà có nhan sắc
khuynh nước đổ thành. Bởi tôi, vốn tài mạo tầm thường và cũng không có nhiều
may mắn bất ngờ để lọt mắt xanh những cô có nhan sắc chim sa cá lặn. Vả lại tôi
cũng thường nghe bố tôi tuyên truyền nhồi nhét trong cái đầu từ nhỏ rằng, đẹp
đến mấy rồi cũng trở thành méo mó xấu xí, và vợ đẹp là vợ người ta. Vợ tôi cũng
không có tài ba xuất chúng, bởi tôi vốn nể sợ và có thành kiến với những người
đàn bà tài giỏi, vì họ thường kiêu ngạo và hay thành độc tài vợ trị. Ðộc tài
đảng trị thì có thể bỏ nước chạy ra biển chết, chứ độc tài vợ trị thì không
chạy đâu cho thoát cả!
Vợ tôi chỉ là một người đàn bà trung bình trên tất cả
mọi mặt. Với một vóc dáng tầm thường bên ngoài, không vêu vao xấu xí khó nhìn. Bên
trong nàng mang một tấm lòng hiền hậu, bao dung, biết hành xử khôn ngoan khéo
léo, để đem lại cho gia đình hạnh phúc êm ấm lâu bền mà tôi vô cùng biết ơn mỗi
khi nghĩ đến.
Trong nhiều năm chung sống, chưa bao giờ nàng nặng
lời với tôi, chưa bao giờ có cử chỉ hay ngôn ngữ thiếu lịch sự, cũng chưa lần
khóc lóc giận hờn đòi hỏi điều này điều kia, hoặc đặt điều kiện làm khó, hay so
đo chuyện nhà với gia đình người khác.
Ngoài tình cảm thắm thiết chia sẻ của vợ chồng, nàng
âu yếm như một người tình, khoan dung rộng lượng như một người mẹ và hiểu biết
như một người tri kỷ.
2. Năm tôi hai mươi tám tuổi, mẹ tôi nóng ruột thúc hối
ép tôi lập gia đình. Bà đưa cái công thức cổ xưa của mấy ông Tàu bày ra là «tam thập nhi lập». Tôi cũng chưa đến ba
mươi, mẹ tôi cứ gán đại thêm cho hai tuổi để dễ bề ép uổng.
Tuổi đó, thích được quen nhiều bạn gái, bạn thôi thì
được, nhưng nghe đến chuyện hôn nhân là xanh mặt. Vì qua kinh nghiệm bạn bè,
kinh nghiệm giao tiếp trong sở, tôi thấy đa số mấy anh có vợ rồi thì dường như
bị khép chặt trong cái vòng «chuyên chính»
của bà vợ nhà! Cái vòng tuy lỏng lẻo và êm ái, nhưng bằng sắt, rất chặt và siết
cứng. Một anh bạn thân, lâu lâu giận vợ, đến nhà tôi ở lại, nằm rũ ra trên
giường như đống mền rách rầu rĩ nói với tôi:
- Tao chỉ
mong có được một ngày an bình, sung sướng như mày, một ngày thôi cũng đủ.
Nghe thế thì không sợ sao được? Trong sở tôi có mấy
anh bạn bị vợ cào rách mặt và phải lấy cớ là dao cạo râu cắt. Ai cũng biết
chuyện gì đã xảy ra, vì mặt mày các anh láng lẫy, trơn tru, có sợi râu nào đâu
mà phải cạo cho dao cắt!
Một ông lớn tuổi khác, vợ vào tận sở xé áo và kêu
bằng mày tao, còn tố cáo ông mang bằng kỷ sư giả bên Pháp về.
Nhan nhản những tấm gương gia đình u ám trước mắt như
vậy, thì chỉ có ngu quá hoặc liều mạng mới không sợ mà thôi. Tôi khất lần mãi
không được, phải bẽn lẽn theo mẹ, đi ra mắt, và xem mặt nhiều cô con gái các
gia đình mà bà quen biết. Tôi theo lời dạy của một anh quân sư quạt mo, cứ mang
bộ mặt đưa ma đến nhà người ta và ăn nói nhát gừng cộc lốc, thì không ai muốn
gả con gái cho, và các cô thấy vậy thì cũng ớn lạnh mà dạt ra. Thế mà cũng có
nhiều nhà khen tôi hiền lành, muốn gả con gái cho. Tôi tìm đủ lý do nói riêng
với mẹ để chê bai từ khước. Cô thì chê mặt dài, cô thì chê mũi lớn, cô khác chê
mắt có đuôi, cô thì mồm như có râu. Toàn cả những lý do vu vơ. Mẹ tôi phiền
muộn thở dài, vì biết con trai bà cũng chẳng có sự nghiệp gì sáng giá,chẳng có
một phong cách đặc biệt nào, mà đòi hỏi quá đáng chăng?
3. Không nỡ để mẹ buồn, tôi đem Lam, người bạn gái
thân thiết nhất về giới thiệu với mẹ, bà vui vẻ chịu ngay. Bà khen Lam láu
lỉnh, bặt thiệp và xinh đẹp. Mẹ tôi đến thăm xã giao nhà Lam hai lần để dò xét
gia thế, và quyết liệt chống đối cuộc hôn nhân, lấy lý do là mẹ Lam dữ dằn và
có cách cư xử thiếu lễ độ với chồng. Tôi nói:
- Con cưới Lam chứ cưới bà ấy đâu mà mẹ sợ?
Mẹ tôi nhất quyết tin rằng, mẹ hổ thì khó sinh được
con cừu. Vì cách đối xử của cha mẹ, ảnh hưởng đến tính tình con cái. Cha mẹ dữ
dằn, con cái khó mà hiền lành được, vì ngày ngày học cách ăn nói, cách đối xử,
tiêm nhiễm những thói quen của cha mẹ, và đem ra xử sự với đời, mà không biết
đó là xấu. Tôi cố bào chữa cho Lam, nhưng mẹ tôi đã nhất quyết, không lay
chuyển được. Bà nói:
- Mẹ
thương con, mẹ không muốn sau này con khổ vì đời sống gia đình thiếu hạnh phúc.
Vì không có gì khổ bằng có vợ dữ dằn, hỗn láo, có thể làm người chồng buồn
phiền sinh ra rượu chè, cờ bạc, trai gái hư hỏng. Mẹ thương con, lo cho tương
lai con nên mẹ không chịu.
Tôi định nói với mẹ rằng, con trai của mẹ cũng chẳng
hiền lành chi, mà chê thiên hạ. Nhưng sợ mẹ buồn nên im lặng. Mẹ của Lam biết
được ý kiến của mẹ tôi, nổi tự ái, nói nhiều lời tàn nhẫn, tổn thương đến gia
đình tôi, và tuyên bố không bao giờ gả Lam cho tôi. Khi bị trắc trở, ngăn cấm
thì tình yêu càng thêm tha thiết bốc lửa, và hai đứa tôi càng quyết vượt qua hàng
rào ngăn cản của gia đình. Muốn sống cho nhau, và sống chết vì tình yêu.
Một lần chìu ý mẹ, tôi miễn cưỡng đi xem mặt một cô
mà mẹ tôi gọi là gia đình phúc hậu đàng hoàng. Tôi chẳng tha thiết gì, chỉ giữ
đủ lịch sự tôi thiểu để cho mẹ khỏi mất mặt. Lần đó Lam biết được, nàng giận dữ
sỉ vả tôi:
- Anh là
một thằng đểu cáng, xấu xa đê tiện, một kẻ hèn nhát núp váy mẹ, không dám làm
gì cả. Anh không xứng đáng với tình yêu của tôi.
Tôi nghe mà bàng hoàng, như bị sét đánh. Hai đứa giận
nhau. Tôi chợt nhớ tới lời nhận xét của mẹ, và thấy bà cũng có lý phần nào. Nhưng
tim tôi vẫn nát tan xót xa vì chuyện tình đổ vỡ.
Ngay sau đó, Lam có người yêu mới là Tuân. Tuân cũng
là trong đám bạn bè quen biết lâu dài với tôi, tính tình Tuân hiền lành, chịu
đựng, và Tuân đã bền bỉ theo đuổi Lam từ lâu. Nửa năm sau, tôi đi dự đám cưới
Tuân, Lam với trái tim vỡ nát, nhưng cũng vui mừng vì Lam lấy được chồng hiền
lành và đàng hoàng, có thể bảo đảm đời sống tinh thần vật chất cho gia đình sau
này. Tôi thật tình nghĩ rằng, tôi không bằng được Tuân về nhiều mặt. Lam bỏ tôi
là phải.
4. Mẹ tôi làm như lấy vợ cho bà, cứ khóc lóc thúc
giục mãi. Tôi tâm sự với một người bạn cũ. Anh cười và nói:
- Hay là
cậu thử tìm hiểu Mai, em gái tôi xem sao. Nó cũng sẵn có cảm tình với cậu đó. Mai
hiền lành lắm. Ðược bạn khuyến khích, tôi bắt đầu tìm hiểu Mai. Nàng không đẹp,
không xấu, chăm chỉ, hiền lành. Trước đây, đến nhà bạn chơi, tôi chỉ thấy Mai
thấp thoáng đâu đó sau bàn học, hoặc lẳng lặng rút lui sau khi cúi đầu chào lễ
phép.
Dẫn Mai đi chơi, tôi không tìm hiểu được chi nhiều về
Mai, vì nàng quá thụ động, khi nào cũng nhẹ nhàng chìu chuộng, ít đưa ý kiến
riêng. Khi hỏi ý, nàng thường bảo:
- Dạ, anh
cho em đi đâu cũng thích cả, anh vui thì em cũng vui. Tôi đem nhận xét về cái
hiền lành của Mai nói với một người bạn. Anh cười hô hố và nói:
- Trời ơi,
khi mới quen thì em nào mà không hiền lành như thánh mẫu, dịu dàng như tiên cô.
Khi cưới về thì cái đuôi dài thòng mới lòi ra, và dữ như chằng tinh. Em nào
cũng vậy cả.
Tôi hỏi thẳng anh của Mai, anh trả lời:
- Con nhỏ
hiền lành, biết nhường nhịn và rất dịu dàng. Cậu có phước lắm mới gặp nó. Không
phải vì nó là em gái mà tôi khen đâu.
Mẹ tôi đến thăm gia đình Mai nhiều lần, khen mẹ của
Mai phúc hậu, hiền lành, cư xử lịch sự, phải phép với chồng. Bà nghĩ rằng, nhất
định Mai cũng học được nề nếp gia đình của mẹ, không nhiều thì ít. Bà thúc tôi
làm đám cưới ngay. Tôi xin hoãn một thời gian để tìm hiểu thêm, mẹ không chịu
và bảo:
- Lấy vợ
thì lấy liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha.
Tôi nói rằng, nếu nghe được lời dèm pha đúng, thì
cũng là điều tốt, mình khỏi phải xét đoán lầm người. Mẹ tôi lại giảng cho tôi
rằng, chín mươi phần trăm cách cư xử của con cái là do ảnh hưởng sinh hoạt tốt
xấu của cha mẹ. Cha mẹ gieo vào đầu con cái thứ tư tưởng nào, thì nó sẽ hành
động theo lối đó. Thương mẹ, tôi tạm quên kinh nghiệm ghê gớm trong đời sống
gia đình của bạn bè và đồng sự, liều thân lấy vợ cho mẹ vui lòng.
Có một ông bạn bảo rằng, lại thêm một thằng đàn ông
ngu muội đi vào vết xe đổ nghìn năm của nhân loại
5. Tôi cưới Mai, nàng như cái bóng dịu hiền bên tôi. Tôi
thấy mình tan loãng vào tình yêu êm đềm, và chợt nhận ra đời sống gia đình êm
ái, thoải mái và hạnh phúc hơn nhiều lần đời sống độc thân. Không thấy gò bó tù
túng trong dây ràng buộc của gia đình như nhiều người thường bảo. Mai lo lắng
cho tôi những thứ cần thiết lặt vặt trong cuộc sống bình thường, bổ khuyết cho
tôi những thiếu sót, dịu dàng an ủi tôi những khi lo buồn. Tôi nói với vợ:
- Anh ngu
quá, biết lấy vợ mà sung sướng hạnh phúc như thế này, thì đâu để độc thân đến
gần ba mươi tuổi. Uổng thật.
Những khi chúng tôi có ý kiến trái ngược, Mai dịu
dàng phân tích thiệt hơn cho tôi nghe, rồi để cho tôi quyết định. Sau khi quyết
định xong, dù có trái ý nàng, Mai cũng vui vẻ cố gắng giúp tôi hoàn thành công
việc. Không như các bà khác, những lúc chồng làm trái ý, thì các bà mong cho
ông chồng thất bại để chứng tỏ ý kiến của bà là đúng, là hay. Mai thường nói:
- Thuận vợ
thuận chồng tát bể đông cũng cạn. Nếu ai cũng khăng khăng giữ ý của mình, thì
chẳng làm nên được việc gì cả.
Cũng có khi quyết định của tôi sai lầm, đưa đến kết
quả không tốt. Những lúc này, Mai thường hết lời dịu dàng an ủi tôi, và cho
rằng tôi không có lỗi gì cả, vì ai cũng có thể sai lầm, và Mai cho rằng nàng
cũng có phần lỗi, vì chưa tận tình giúp tôi đầy đủ ý kiến để làm quyết định. Từ
đó, tôi cảm thấy mình phải lắng nghe ý kiến của vợ nhiều hơn. Tôi nghĩ, nếu
những lúc này mà Mai dằn vặt, nằng nặc buộc tôi tôi, thì chưa chắc tôi đã thấy
mình lầm lỗi. Mai không như một số đàn bà khác, đúng hay sai cũng đổ lỗi cho
chồng, và những khi chồng thất bại trong đời, là cái dịp cho các bà chê bai,
mai mỉa, nói những lời tàn nhẫn.
Ngoài xã hội, có những lúc tôi vô tình hoặc thiếu may
mắn, gây nên những sai lầm với người khác, Mai tự đứng ra, gánh vác hết trách
nhiệm thay tôi. Tự ái đàn ông, đâu cho phép tôi để vợ gánh vác trách nhiệm thay
mình. Tôi thấy thương và quý vợ nhiều hơn. Mai bảo:
- Chuyện
nhỏ, để em gánh vác giúp, anh để tâm trí làm những việc khác ích lợi hơn. Tôi
thầm nghĩ, tôi thì làm chi có việc lớn mà gánh vác.
6. Những năm mới lấy nhau, tài chánh gia đình khó
khăn, đắp trước bù sau hàng tháng. Áo quần đơn sơ, ăn uống dè xẻn. Thế mà Mai
bao giờ cũng vui vẻ, chưa bao giờ nghe Mai than thở hoặc so sánh với các bạn bè
khác. Nàng thường nói:
- Chúng ta
nghèo vật chất, nhưng giàu hạnh phúc, tinh thần thanh sạch, thế là đủ. Ðời sống
biết đủ là đủ.
Chính vì Mai không than thở, nên tôi thấy mình có
trách nhiệm nhiều hơn về tài chánh gia đình. Buổi chiều về, tôi đi dạy thêm cho
các lớp đêm. Ngày nghỉ, tôi mở lớp dạy kèm luyện thi cho từng nhóm nhỏ. Tài
chánh gia đình nhờ đó mà dồi dào hơn, có thêm tiền, nhưng Mai không vui, mà chỉ
lo cho tôi thiếu sức khỏe sinh bệnh hoạn.
Năm đó, tôi không chịu theo bè cánh với nhóm tham
nhũng, chúng đày tôi về một tỉnh nhỏ xa xôi. Tôi buồn phiền lắm. Không đi thì
không được, đi thì bỏ hết công chuyện làm ăn riêng tư. Mai khuyên tôi nhẫn
nhịn, và gắng tìm vui trong hoàn cảnh mới.
Khi chúng tôi về tỉnh nhỏ, Mai thường an ủi và nâng
đở tinh thần tôi, đặt mua các thứ sách báo tôi thích, để giải trí và quên đi
phần nào nổi buồn nơi tỉnh nhỏ. Mai xin được việc ở một nhà dạy trẻ, để phụ
thêm kinh tế gia đình…
Khi chạy vội về Sài Gòn vào năm 1975, chúng tôi mất
tất cả, trở thành trắng tay. Tôi lo lắng và muộn phiền lắm, nhưng nhờ thái độ
trầm tĩnh và chịu đựng của Mai mà tôi bớt bối rối. Trước ngày miền Nam
sụp đổ, chúng tôi bàn nhau là nên ở hay đi. Ý Mai thì nên đi để bảo toàn tính
mạng cho gia đình, khi yên ổn thì quay trở về cũng chẳng mất mát gì. Phần tôi
thì vì yêu mến quê hương một cách lãng mạn, quyết ở lại, muốn cùng chia sẻ khổ
đau, sống chết cùng quê hương. Chủ nghĩa đối với tôi không quan trọng, tôi nghĩ
chính thể nào cũng thế thôi, cũng cùng là người Việt, cùng giòng giống tổ tiên,
thì việc gì mà phải bỏ chạy?
Tôi đã lầm to. Thảm họa trùm xuống khắp miền Nam. Ðau
khổ, lao tù, đói lạnh, đè nén, áp bức. Tôi cũng ôm gói đi tù như mọi bạn bè,
Trong tù, tôi vô cùng ân hận về quyết định sai lầm, để thân xác mình bị tù đày,
để vợ con bơ vơ, đau khổ, đói rách, không vốn liếng, không tài sản.
Ba tháng sau khi tôi đi tù, Mai thấy chồng chưa được
thả về, đã xoay xở rất mau. Nàng mua áo quần cũ, cắt ra may thành áo quần trẻ
em đem bỏ mối tại các chợ trời hè phố. Ðêm nào cũng may đến mười hai giờ khuya.
Một mình nuôi chồng tù tội, nuôi con thơ dại, ngược xuôi trong cuộc đổi đời. Những
năm tháng nằm tù, có nhiều thì giờ suy nghĩ, tôi mới sâu sắc nhận ra mình mang
ơn vợ quá nhiều. Tình cảm nàng dành cho tôi tràn đầy dịu dàng, bao dung, âu yếm
và hy sinh. Tôi biết mình là kẻ có phước được vợ hiền…
7. Khi tôi được ra tù, thể xác tiều tụy, tinh thần
suy nhược, đời sống bất ổn, bị đe dọa thường trực. Hàng tuần bị tên công an khu
vực đến thúc giục đuổi đi về vùng kinh tế mới, và nói lời hăm dọa. Tôi nản lòng
bàn với Mai để dọn về vùng kinh tế mới cho yên thân. Nàng đã khôn ngoan giải
thích rằng, bằng mọi giá phải bám vào thành phố, để sống còn và để bớt bị độc
tài áp bức, bớt khốn khổ vì cái u mê của chế độ hành hạ. Nàng thường khuyên
tôi:
- Mình hãy
xem cuộc đời này như một trò chơi không vui, đừng quá quan tâm đến những gì xảy
ra cho mình, cho thiên hạ chung quanh. Những đau khổ mà mình đang chịu đựng
cũng là một thứ thử thách, làm cho mình lớn thêm lên, trưởng thành hơn, và cứ
vui với những gì nhỏ nhoi nhất có thể có trong thời gian này. Không xấu xa nào
có thể tồn tại mãi mãi được, ánh sáng tương lai sẽ có ngày chiếu rọi trên quê
hương.
Mai đã an ủi, khuyên nhủ và dịu dàng dắt tôi đi qua
quãng đời đau khổ trong chế độ lạ lùng vô nhân kỳ quái này. Chúng tôi bữa đói
bữa no dắt nhau đi trong đời sống mịt mù của xã hội chủ nghĩa trá hình.
Khi tôi ngỏ ý tham gia một tổ chức phục quốc chống
lại chính quyền cộng sản trong thành phố, thì Mai đồng ý ngay. Nàng nói:
- Chúng ta
đã vất súng đầu hàng, chỉ mong được bình yên sống và góp phần xây dựng lại quê
hương. Nhưng kẻ chiến thắng đọa đày nhân dân xuống vực thẳm. Không cho ai yên
sống. Chính họ đã buộc chúng ta đứng dậy, cầm lại súng. Việc đáng làm thì phải
làm. Nếu ai cũng trốn tránh cả, thì đau khổ này biết bao giờ dứt được? Nhưng
phải thận trọng để khói phí thân làm việc dã tràng.
Cùng với bạn bè cũ mới,chúng tôi tổ chức mua súng,
liên lạc với các nhóm kháng chiến khác. Ra một tờ báo bí mật chuyền tay. Mai đã
ngược xuôi giúp đỡ chúng tôi, mang tin tức, chuyển vận hàng hóa. Chúng tôi mơ
mộng một ngày ánh sáng tự do chiếu rọi trên quê hương, trở lại đời sống không
áp bức kẹp kềm. Một vài người trong nhóm bất cẩn, tổ chức bị đổ bể, đa số anh
em bị bắt. Tôi chạy thoát được với cái áo có nhiều lỗ đạn bắn thủng bên hông. Mai
nhờ người nhắn tôi bình tĩnh chờ nàng sắp đặt. Nàng vay mượn và bán hết đồ đạc
trong nhà, đóng tiền cho tôi bí mật vượt biên…
Phút cuối chủ thuyền cho vợ con tôi cùng đi với lời
hứa trả tiền sau. Tôi cám ơn Trời Phật đã xui khiến cho chúng tôi còn có bên
nhau trong đời. Trên biển đói khát Mai nhường phần ăn uống cho con, cho chồng,
với lý do là tôi cần sống hơn nàng, tôi có thể làm được nhiều việc ích lợi hơn.
Nhưng theo ý tôi, thì chính Mai mới xứng đáng để sống sót vì đời sống nàng có
nhiều ý nghĩa, tốt đẹp hơn.
Những ngày khó khăn nắng cháy cực khổ tại trại tỵ
nạn, nàng dành lấy hết tất cả việc vặt vãnh như lãnh thức ăn, xách nước, nấu
nướng, chăm sóc con cái, để cho tôi có thì giờ tham gia tiếp tay phụ giúp các
công tác chung trong trại. Mai dặn tôi tránh xa những nơi có tranh giành, có
chút quyền lợi, chỉ kê vai gánh vác những việc có ích chung mà không ai làm. Với
khuyến khích và an ủi của vợ, tôi làm được nhiều việc hữu ích cho cộng đồng. Trong
lúc đó, một vài anh bạn tôi, tham gia việc cộng đồng mà như làm việc quốc cấm,
bị vợ cằn nhằn, ngăn cản, mỉa mai rằng «việc
nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng».
Nhiều người than vãn về những thiếu thốn, khó khăn,
cực khổ trong trại tỵ nạn. Mai thì khi nào cũng vui vẻ, lạc quan, và cho rằng
tương lai được sống đời tự do đang rõ ràng trước mắt. Những thiếu thốn khó khăn
trong trại tỵ nạn là đương nhiên. Ở đây cũng còn sung sướng hơn những ngày
tháng sống với chế độ công sản u ám, bất trắc, chèn ép, sợ hãi. Những khi con
tôi chê cơm, Mai nhắc nhở cho chúng những ngày khoai sắn qua bữa, những ngày
đói khát trên biển khơi, thì chúng vội vàng ăn ngon lành những chén cơm trong
trại tỵ nạn.
8. Chúng tôi đến Mỹ vào mùa Ðông, tuyết phủ ngút
ngàn, trắng xóa cả đất trời. Chưa biết có thể làm gì để nuôi sống gia đình
trong miền đất mới, nhưng nhờ trợ cấp xã hội trong thời gian đầu, đắp đổi tạm
sống qua ngày. Dù không dư giả, tiền trợ cấp xã hội được Mai chia ra làm ba
phần: hai phần ba nuôi sống gia đình với chi tiêu dè xẻn tiện tặn, một phần ba
gởi về giúp những bạn bè đang đói khó khắc khoải trong lao tù, trong các vùng
kinh tế mới…
Hai vợ chồng dắt nhau đi tìm việc, và không nản lòng.
Tôi tìm được một chân rửa chén bát tại khách sạn Holiday Inn. Mai tìm được một
chân làm bánh ngọt Donut. Chúng tôi tự túc được rồi, và từ đó mà tiến lên, tôi
tìm được công việc khác trong hãng tiện có đồng lương khá hơn. Chúng tôi bắt
liên lạc với bạn bè xa gần, và ao ước được đóng góp phần nào vào nỗ lực làm vơi
khổ trên quê nhà.
Thư của bạn bè hồi âm với lời lẽ bi quan, nhiều người
khuyên tạm quên chuyện quê hương đi, mà lo cho đời sống bản thân và gia đình
trước đã. . .
Nhiều đêm Mai thì thầm:
- Chúng ta
có yên lòng hưởng hạnh phúc, tự do khi cả quê hương đang chìm đắm trong khổ
đau? Chúng ta có quên được bao nhiêu người đang kỳ vọng chúng ta nơi quê nhà?
Liệu chúng ta có làm được gì không hay chỉ mải mê lo cho đời sống riêng tư? . .
.
Chưa bao giờ tôi nghe Mai phàn nàn, sanh nạnh với tôi
về công việc trong nhà. Chưa bao giờ nàng lên giọng sai bảo tôi hút bụi, quét nhà,
rửa chén bát. Nếu rảnh, thì tôi làm, nếu tôi bận xem những trận thể thao hấp
dẫn, thì thôi. Nhiều lúc Mai không cho tôi rửa chén bát, giành lấy mà làm, vì
những lúc đó nàng rảnh rang.
Chúng tôi cùng làm việc nhà trong tinh thần chia sẻ,
không phải trong trách nhiệm phân chia việc nào chồng làm, việc nào vợ làm. Mai
chưa bao giờ tranh hơn thua với chồng. Nàng quan niệm rằng, vợ chồng không cần
tranh hơn thua nhau, hơn chồng cũng không được gì mà chỉ tổ tình yêu bị tổn
thương. Chưa bao giờ Mai lớn tiếng hay khăng khăng quyết đoán việc gì. Khi nào
cũng dịu dàng thảo luận và sẵn sàng chờ lúc thuận tiện để thuyết phục thêm. Tôi
đã nghe thấy vợ nhiều người bạn, sẵn sàng xẵng tiếng với chồng, mở miệng ra là
nói nặng lời, nói điều chua chát khó nghe, và tôi biết mình may mắn có vợ hiền...
Những lúc tôi gặp khó khăn ngoài xã hội, mang bực bội và cái không vui về nhà,
Mai thường khuyên tôi rằng:
- Mục tiêu
tối thượng của đời người là đi tìm hạnh phúc. Ði làm kiếm tiền cũng chỉ để mua
hạnh phúc. Hạnh phúc đích thực của cuộc sống là gia đình vui vẻ, ấm êm và dễ
chịu. Không tội chi đem cái khó khăn bực bội của bên ngoài về nhà cho mất vui,
mà phí phạm ngày tháng yên ấm của gia đình. Dù giàu sang danh vọng đến mấy, mà
gia đình thiếu hạnh phúc thì đời không còn ý nghĩa gì.
Thế là tôi tìm được nguồn vui và yên tĩnh tâm hồn. .
.
9. Nhiều khi nằm bên nhau, tôi hỏi Mai:
- Sao hơn
mười mấy năm sống bên nhau, chưa bao giờ em làm cho anh buồn lòng, chưa bao giờ
em làm cho anh phải nổi giận. Em có khi nào buồn giận anh không?
Nàng nói:
- Sách dạy
cho em biết rằng, người cho thì được nhiều hạnh phúc hơn người nhận. Không cầu
thì sẽ được, không đòi thì sẽ có. Biết vui với cái tương đối mà mình đang có,
thì trở thành kẻ sung sướng nhất trong đời. Cho đi tình thương chân thành, thì
được nhận lại bằng tình thương. Nhiều người đàn bà đòi hỏi ở chồng quá đáng,
ngoài khả năng của chồng. Bao nhiêu cũng không thỏa mãn cả. Họ không nhìn thấy
sự hy sinh của người khác, mà chỉ cố bươi móc lỗi lầm cỏn con của chồng để mà
trách móc, giận hờn. Làm thế không có lợi gì cả, mà chỉ là cách phá hoại hạnh
phúc gia đình hữu hiệu nhất.
Tôi thành thực mà nói rằng đã học được rất nhiều điều
tốt của vợ tôi. Nàng càng dịu dàng, càng thu mình nhỏ lại, thì tôi càng thương
yêu trang trải bù đắp cho vợ nhiều hơn. Mỗi khi đi làm về, thấy nét mặt tươi
vui hân hoan của vợ, thì bao nhiêu mệt nhọc bực bội trong ngày đều tiêu tan. Khi
tôi phạm phải lỗi lầm, hành động sai quấy, vợ tôi thường an ủi rằng, mình là
con người chứ đâu phải là thần thánh chi, mà không có sai lầm. Ðừng buồn, cái
thiệt hại này cũng là bài học tốt về sau. Những an ủi, khuyến khích tinh thần
của vợ, làm cho đời sống tôi nhẹ nhàng, êm ái, thư dãn, không bị dồn ép, không
bị áp lực cuộc sống, không có căng thẳng gia đình như nhiều bạn bè khác.
Trên bước đường tha hương, một lần vợ chồng Tuân-Lam
ghé thăm chúng tôi. Tuân là bạn cũ, Lam là người xưa. Vợ tôi biết rõ mối tình
cũ giữa tôi và Lam, nhưng nàng tin chồng, và rất lịch sự, vồn vã đón tiếp họ
hết lòng. Có lẽ Mai cũng biết chuyện xưa của chúng tôi đã nguội lạnh từ lâu,
chẳng ai còn tiếc thương chi. Tuân vẫn hiền lành phúc hậu như xưa, nét mặt chịu
đựng. Ðêm khuya tôi vẳng nghe tiếng Lam đay nghiến dằn vặt chồng ở phòng bên
cạnh, nói những lời thiếu lễ độ. Về sau, mỗi lần nghĩ đến Lam, lòng tôi phơi
phới, vì may mắn, cuộc đời không phải gắn liền với một người đàn bà như Lam. Tôi
biết ơn mẹ nhiều hơn. Kinh nghiệm sống của mẹ đã giúp cho cuộc đời tôi có hạnh
phúc hơn. Và tôi biết thương yêu, nể trọng vợ hơn nhiều.
10. Một chị bạn gia đình không được hạnh phúc, hỏi vợ
tôi bí quyết để được chồng thương yêu nể nang. Mai cười mà nói:
- Không có
bí quyết nào cả. Chỉ có câu chuyện sau đây, tôi thuộc nằm lòng từ thời còn đi
học. Chuyện ở trong sách tập đọc của Pháp. Rằng:
- Có một
anh nông dân đem bò ra chợ tỉnh bán. Suốt ngày không bán được phải dẫn bò về. Ðường
xa mệt nhọc, con bò trở chứng không chịu đi. Có người gạ đổi con bò lấy con
ngựa hồng tung tăng. Anh tưởng được ngựa sẽ thong thả dong cương ra về, nhưng
con ngựa lạ chủ không chịu cho anh cưỡi và cũng trì kéo dằng dai. Một người
khác dẫn con heo nái ngoan ngoãn đi qua, gạ đổi heo lấy ngựa, anh đổi liền. Ðường
xa mệt nhọc, con heo cũng nằm ì không chịu đi, bí quá, anh đổi heo lấy một con
dê nái. Con dê càng cứng đầu khủng khiếp, anh vật lộn với dê phờ phạc. Ðêm đã
tối mịt mù, một hành khách đề nghị đổi dê lấy một con gà trống lớn. Vừa đói,
vừa khát, vừa mệt, anh ôm con gà vào quán đổi lấy bữa cơm. Thế là một bữa ăn
trả giá bằng một con bò. Ăn xong, anh nông phu thong thả ra về, vừa đi vừa ca hát
khỏe khoắn.
Khi về đầu
làng, có bạn quen hỏi đi đâu mà về khuya thế. Anh kể chuyện đi bán bò, và đổi
con gà lấy bữa cơm. Người bạn hết hồn, khuyên anh khoan về nhà, mà bà vợ nổi
cơn tam bành lên, không khéo vợ chồng xô xát gây ra án mạng. Anh nông dân bảo
rằng, chắc vợ anh cũng thấy việc làm của anh là có lý. Người bạn ức quá, đánh
cá một con bò, nếu chị vợ mà không gây gổ, thì anh nông dân sẽ được một con bò,
còn ngược lại, phải mất lại một con bò khác. Người bạn đi theo núp bên ngoài
nghe cuộc đối thoại của vợ chồng anh nông dân. Chị vợ hỏi anh, đã ăn gì chưa,
đi đường có mệt lắm không, bò bán có được giá không? Anh đáp rằng đã ăn rồi,
con bò không bán được mà trên đường về nó không chịu đi nên đã đổi con bò lấy
con ngựa rồi. Chị vợ nói rằng, có con ngựa cũng tốt, nó sẽ kéo xe, giúp mình di
chuyển mau chóng hơn. Anh chồng cho biết con ngựa không chịu cho anh cưỡi nên
đã đổi lấy con heo nái. Chị vợ cũng tán thành ngay và còn dự trù con heo mùa
sau sẽ sinh ra một bầy heo khác, rất có lợi. Anh chồng cho biết thêm, con heo
cũng trở chứng không chịu đi nên đổi lấy một con dê cái. Chị vợ tiếp liền, là
con dê cũng rất có lợi, từ nay mỗi sáng gia đình sẽ có sữa dê mà uống. Anh
chồng lắc đầu và cho biết đã đổi con dê ương ngạnh lấy con gà trống lớn. Chị vợ
anh nông phu tiếp rằng, có con gà cũng tốt, mỗi sáng nghe nó gáy cũng vui tai. Anh
chồng bảo là buổi sáng ra đi không đem tiền theo, đói quá, đã vào quán đổi con
gà lấy bữa cơm.
Nghe xong,
chị vợ anh nông phu đến quàng hai tay, ôm vai chồng và nói rằng, anh làm như
thế là phải. Lấy của che thân, chứ đừng lấy thân che của. Ði cả ngày mệt nhọc
đói khát, không ăn chịu sao nổi. Em đã để sẵn khăn, múc sẵn nước, anh đi tắm
cho khỏe.”
… Mai kết luận rằng: «Muốn được chồng thương cũng rất dễ, đừng bao giờ tranh hơn thua với
chồng, việc gì đã lỡ, thì cho qua luôn, vui vẻ chấp nhận, và dịu dàng, nhường
nhịn chồng là yếu tố căn bản để được chồng thương».
11. Ngoài song thân ra, người tôi biết ơn nhiều nhất
là vợ tôi. Ðời sống tôi có ý nghĩa hơn, sung sướng hơn, hạnh phúc hơn nhờ vợ
khôn ngoan dịu dàng. Nhiều đêm thức giấc tôi nhẹ hôn lên mắt vợ, thầm so sánh
tấm lòng hiền chân của vợ với trái tim của một vị nữ thánh. Phần nàng, thì luôn
luôn: «Em chỉ muốn làm cái bóng nhỏ và âm
thầm bên đời anh thôi».
Mai chưa hề đọc thánh kinh, nhưng nàng đã biết chọn
chỗ ngồi thấp nhất để được nâng lên cao nhất trong lòng chồng con.
Tràm Cà Mau